I. LỊCH SỬ ĐỀN THỜ
Đền thờ thánh Phêrô là thành quả công trình tái thiết đầy công phu trên
ngôi Đền thờ cổ kính do Hoàng đế Costantino kiến thiết vào năm 320. Để
xây Đền thờ mới, người ta mất khoảng 120 năm, tính từ đầu thế kỷ 16,
dưới sự điều khiển của 12 vị kiến trúc sư trong đó có nhiều người nổi
tiếng như Bramante, Michelangelo, Raffaello và Maderno. Cả Đền thờ cũ
cũng như Đền thờ mới đều được xây trên mộ của thánh Phêrô Tông Đồ,
được an táng trên sườn đồi Vatican, trong khu vực nghĩa trang cạnh hý
trường của Hoàng đế Nerone. Mái vòm to lớn của Đền thờ thánh Phêrô do
Michelangelo vẽ kiểu nhìn xuống thành Roma, trở thành điểm hội tụ lý
tưởng nhắc nhớ ngôi mộ đơn sơ của thánh Phêrô, là Đá Tảng trên đó Chúa
Kitô đã xây dựng Giáo Hội của Ngài. Hàng cột vòng do kiến trúc sư
Bernini thiết kế giống như vòng tay mở rộng, như một dấu hiệu tiếp đón
yêu thương, nhấn mạnh ý tưởng Mẹ Giáo Hội, trong Chúa Kitô, trở thành
một cộng đoàn các anh chị em, thuộc nhiều dân nước khác nhau.
1. Đền thờ thánh Phêrô thời hoàng đế Costantino
Trong khu vực hý trường của Hoàng đế Nerone, giữa sông Tevere, đồi
Gianicolo và Vaticano – nơi Hoàng đế La Mã đã ra lệnh hành hình các tín
hữu Kitô,- theo truyền thống, cũng là nơi thánh Phêrô chịu tử đạo, và
thi hài Ngài được an táng tại nghĩa trang đó cùng với các vị Tử Đạo
khác. Hý trường này do Hoàng đế Caligola (37-41) khởi xướng và được
Nerone (54- 68) hòan tất. Ban đầu hý trường được dùng làm nơi đua xe
ngựa, và về sao làm nơi các giao đấu với các dã thú. Đức Anacleto, vị
Giáo Hoàng thứ 3 của Giáo Hội, từ năm 77 đến 88, đã thiết lập một Nhà
Nguyện nhỏ dâng kính thánh Phêrô. Sau này Hoàng đế Costantino cho thiết
lập tại nơi đó ngôi Thánh Đường vĩ đại gồm 5 gian và tồn tại cho đến
cuối thế kỷ 15.
Các văn sĩ thời đó kể lại: năm 324, Hoàng đế Costantino ngự xuống khu
vực Vaticano với quân gia hùng hậu, và phủ phục trước mộ thánh Phêrô,
cởi bỏ Hoàng bào, cầm chiếc xẻng lớn và chính ngài bắt đầu đào, xác định
khu vực xây đại Vương Cung Thánh Đường mới. Hoàng đế cũng đổ đầy và
vác trên vai 12 giỏ đất như một cử chỉ tôn kính 12 Tông Đồ. Con của
Ngài là Hoàng đế Costante đã được vinh dự hoàn tất công trình to lớn
xây cất Đền thờ vào năm 349, sau 25 năm kiến thiết. Các bức họa và hình
khắc chạm trổ cổ kính cho thấy công trình xây cất do Hoàng đế
Costantino xây cất không khác lắm với các Vương Cung Thánh Đường Kitô
khác ở Roma, xét về cơ cấu kiến trúc. Nhưng qua các thế kỷ, thánh đường
này càng trở nên phong phú nhờ sự quan tâm đặc biệt của các vị Giáo
Hoàng cũng như các ông vua Italia và nước ngoài.
Sự biến cải đền thờ thánh Phêrô diễn ra qua nhiều giai đoạn khác nhau.
Trong 12 thế kỷ, đền thờ này được trang điểm phong phú hơn với những
bức tường được gắn cẩm thạch, các bàn thờ được tô điểm hơn, và các hậu
cung nhà thờ đươc trang trí bằng những bức tranh khảm. Đá cẩm thạch quý
giá được gỡ từ các đền đài dinh thự ngoại giáo hoặc đưa từ Đông Phương
về, các gỗ hương được cắt từ rừng xứ Liban, kim loại bóng loáng, những
cánh cửa đồng từ vùng Byzantine với vải vóc do các thương gia miền
Venezia nhập khẩu, các men từ các công xưởng miền Limoge, kính từ vùng
Renana, các bức thảm từ Thổ Nhĩ Kỳ, Arập Sicilia, vải vóc của Ý, Anh,
Tây Ban Nha, các đèn và bình hương bằng vàng bạc, tất cả được dùng để
trang trí cho Đền Thờ, Nhà Nguyện, Bàn thờ, nhà dành cho Linh mục và các
tượng đài khác.
Các Hoàng đế và vua chúa đến đền thờ thánh Phêrô để được các ĐGH phong
vương: Carlo đại đế là vị đầu tiên được ĐGH Leo 3 (795- 816) đội triều
thiên tấn phong vào dịp lễ Giáng Sinh năm 800. Sau khi chào Hoàng đế
với danh hiệu “Carlo Augusto Đại Đế Thái Bình của dân Roma”, ĐGH dùng
dầu thánh sức cho hoàng đế và trao gươm cho ông giữa tiếng reo vui mừng
của người Pháp và Ý. Sau vị đại đế này, những người kế vị ông là
Lotario và LudovioII, và bao nhiêu vị khác cho đến Federico III đều được
phong vương trước mộ Thánh Phêrô Tông Đồ. Cũng như hòn đá ở
Campidoglio ( nay là Tòa Đô Sảnh Roma), giữ gìn tinh hoa sống động
nhất của tinh thần Roma trong thời Trung Cổ và Phục Hưng, tảng đá phủ
thi hài thánh Phêrô được coi là nơi cực thánh của thế giới Kitô Giáo,
được bao nhiêu tín hữu sùng mộ, hầu như hơn cả thánh mộ ở Giêrusalem.
2. Xây đền thờ thánh Phêrô mới
Vaticano
chỉ là nơi các vị Giáo Hoàng cư ngụ từ năm 1377 và trước khi Giáo
triều được chuyển sang Avignon (1309- 1377) miền nam nước Pháp, dinh
của các vị Giáo Hoàng tọa lạc tại Laterano. Trong 73 năm Đức Giáo Hoàng
ở Avignon, đền thờ thánh Phêrô bị bỏ hoang đến độ hầu như không thể
trùng tu được. Thực vậy sau một ngàn năm huy hoàng, Đền thờ thánh Phêrô
do Hòang đế Costantino xây cất bắt đầu có những dấu hiệu tàn lụi, nhất
là nơi các bức tường, đặc biệt là những tường phía nam. Những tường
này được xây trên những gạch vụn của hý trường và các dinh thự cổ kính
khác. Vì thế các vị Giáo Hoàng đã nghĩ ra ý tưởng xây lại hoàn toàn
một Đền Thờ mới. Nói đúng ra, không phải vì nhu cầu cần phòng ngừa Đền
Thờ cũ sụp đổ, nhưng vì tinh thần thời đó không nhận ra nơi thánh đường
cũ kỹ ấy sự huy hoàng vĩ đại như thời Phục Hưng đòi hỏi. ĐGH Nicolo 5
(1447- 1455) là người đầu tiên đã đi tới quyết định tiến hành xây Đền
thờ thánh Phêrô mới, và ủy thác cho kiến trúc sư Bernardo Rossellino
nhiệm vụ xúc tiến. Theo dự án của nhà kiến trúc này, đền thờ này có một
cổng phía trước và có hình thánh giá Latinh, với một mái vòm ở giữa và
khu hậu cung có hình bán nguyệt.
Sau khi phá hủy một số phần của đền thờ, người ta bắt đầu xây hậu cung
của đền thờ mới. Nhưng ĐGH Nicolo qua đời vào tháng 3 năm 1445, nên
công trình xây cất bị ngưng lại. Các vị kế nghiệp dường như từ bỏ ý
tưởng xây Đền Thờ mới, và chỉ nghĩ tới việc trang trí và phong phú hóa
đền thờ cũ. Mãi cho đến thời ĐGH Giulio II della Rovera (1503- 1513) mới
tiếp trục công trình bị bỏ dở dang, và Michelangelo đã trình bày đồ
họa cho ngài. Khi ĐGH hỏi phí tổn sẽ là bao nhiêu, Michelangelo trả lời
là 100 ngàn đồng vàng. Đức Giulio II đáp: “Hãy làm với 200 ngàn đồng”,
và Ngài sai hai kiến trúc sư san Gallo và Donato Bramante đi xem địa
điểm, và ngài muốn xây lại Đền Thờ hoàn toàn mới.
Khi Bramante nhận lệnh của ĐGH Giulio II (1503- 1513) phá bỏ Đền Thờ cũ
để xây Đền Thờ mới, tức là Đền thờ thánh Phêrô ngày nay. Dân Roma kinh
ngạc theo dõi việc phá Đền thờ cũ và họ đặt tên cho Bramante là “Kiến
trúc sư phá nhà”. Trong những năm ấy, nhiều dự án nối tiếp nhau, cho
đến khi Michelangelo lúc đó đã gần 70 tuổi, bắt đầu xây mái vòm. Sau
khi Michelangelo qua đời (1564), 4 kiến trúc sư khác tiếp tục. Mặt tiền
do Carlo Maderno làm xong năm 1614. Ngày 18. 11. 1626, Đức Giáo Hoàng
Urbano VIII thánh hiến Đền Thờ mới, nhân dịp kỷ niệm 1.300 năm thánh
hiến Đền thờ do Hoàng đế Costantino thiết lập. Về sau, kiến trúc sư
Giuseppe Valadier đã thực hiện hai đồng hồ ở mặt tiền đền thờ năm 1822.
Dưới đồng hồ bên trái có quả chuông chu vi 7,5 mét, nặng 9,3 tấn.
II. VÀI NÉT ĐẶC TÍNH CỦA ĐỀN THỜ
1. Đền thánh Phêrô vẫn được coi là thánh đường có kích thước lớn nhất
của thế giới Kitô giáo. Theo kiến trúc sư Giuseppe Valadier (1812): từ
nền tầng hầm đền thờ tới mái vòm cao 136 mét, từ nền đền thờ là 133
mét. Nguyên diện tích đền thờ, không kể nhà mặc áo; có diện tích hơn 2
hecta, tức là 22.076 mét vuông. Mặt tiền đền thờ giống như một sân
bóng đá, cao 46 mét và chiều ngang 115 mét. Các cột cao gần 29 mét,
đường kính 2,65 mét. Tiền đường từ vòng cung Carlo Muông tới vòng cung
Costantino dài 140 mét. Chiều ngang đền thờ là 150 mét; chiều dài đền
thờ là 187 mét ( Đền thờ thánh Phaolô của Anh giáo ở Luân Đôn dài
157,20 mét, nhà thờ s Maria del Fiore ở Firenze dài 148,12 mét, nhà thờ
chính tòa Milano dài 134,17 mét, nhà thờ chính tòa Cologne dài 132
mét, nhà thờ thánh Petronio ở Bologna dài 131,73 mét, đền thờ thánh
Phaolô ngoài thành ở Roma dầi,64 mét. Đền thờ thánh Phêrô có thể chúa
được 54 ngàn người nếuu đứng chật hết mọi chỗ kể cả các gian lối đi,
nhưng thực tế, trong các đại lễ ĐGH cử hành, thường chỉ có 10 ngàn
người ngồi dự lễ.
2. Trong Đền thờ có 46 bàn thờ, bàn thờ cuối cùng được Đức Piô 9 (1846- 1878) thánh hiến ngày 18.1.1856. Có 9 bàn thờ dâng kính đức Mẹ với nhiều tước hiệu khác nhau.
Tầng hầm đền thờ: nền tương ứng với nền nguyên thủy từ thời hoàng đế
Costantino. Trong tầng hầm này có nhiều nhà nguyện chung quanh mộ thánh
Phêrô, với những bàn thờ để các linh mục cử hành thánh lễ. Mộ của 147
trong số 264 giáo hoàng cũng được đặt tại đây.
3. Cửa Thánh.
Trong số 5 cửa vào đền thờ, có một cửa chỉ được mở vào Năm Thánh. Cửa
Năm Thánh 2000 đã được ĐGH mở trong đêm vọng Giáng Sinh 24.12.1999. Cửa
này được đóng lại vào ngày 6.1.2001.
4. Mái vòm Đền Thờ có
chu vi bên trong là 42,7 mét và chu vi bên ngoài là 58 mét, và cao
50,33 mét. Tính từ nền lên tới đỉnh cao nhất của đền thờ với thánh gia
1là 135,2 mét. Thánh giá trên đỉnh cao 4,87 mét và thanh ngang rộng 2,65
mét. Trọng lượng của mái vòm theo các nhà toán học Boscovich, Le-Leur
và Lacquer, là 56.208.837,46 kilô. Ngoài hai cầu thang vòng mà các du
khách leo lên mái vòm, còn có 9 cầu thang khác, 7 cái lớn và 2 cái nhỏ,
mặc dù đi từ bên trong nhà thờ, nhưng đều dẫn tới cùng một đích điểm.
Bàn thờ chính của Đền Thờ, được coi là Bàn Thờ Tuyên Xưng Đức Tin, được
xây ngay bên trên mộ thánh Phêrô theo lệnh của ĐGH Clemente VIII
(1592- 1605). Bàn thờ có tán che và 4 cột vòng bằng đồng chống đở, do
Bernini thực hiện. tượng các thiên thần ở trên mỗi góc cao 3,5 mét. Tán
che bàn thờ được khánh thàng ngày 29 tháng 6 năm 1633. Dưới bàn thờ này
có một bàn thờ khác của ĐGH Callisto (1119- 1124), và bên dưới đó, có
một bàn thờ khác nữa của Đức Greorio Cả (590- 604). Đi xuống sâu hơn,
người ta gặp một khối hình vuông, bọc cẩm thạch trắng và đá vân đỏ. Đó
là do hoàng đế Costantino thực hiện để kính nhớ thánh Phêrô Tông Đồ và
có lẽ được diễn ra trong lễ nghi tưởng niệm chiến thắng của ông tại cầu
Milvio ngày 28 tháng 10 năm 312.
5. Tượng thánh Phêrô bằng đồng, có từ
thế kỷ 13, được tôn kính trong đền thờ: chân phải của ngài mòn nhiều vì
hàng triệu tín hữu hôn kính qua dòng thời gian, kể từ khi Đức Piô IX
ban ân xá 50 ngày cho những ai hôn kính chân này sau khi đi xưng tội.
theo một truyền thống cổ kính, ngày 29 tháng 6 mỗi năm, lễ thánh Phêrô,
ngừơi ta mặc phẩm phục Giáo Hoàng cho tượng thánh Phêrô. Năm 1798-
1799, lễ nghi mặc áo bị chính quyền cộng hòa cấm, tạo nên sự bất mãn
lớn nơi dân Roma, vốn rất trung thành với truyền thống, khiến những bộ
trưởng tư pháp phải cho mặc áo, ngoại trừ chiếc mũ ba tầng.
6. Tượng Đức Mẹ Sầu Bi (Pietà)-
ở bên tay phải, khi mới bước vào đền thờ, bằng cẩm thạch trắng, diễn
tả Mẹ Maria đang ẳm xác Chúa Giêsu từ trên Thánh Giá xuống, do
Michelangelo thực hiện năm 1500 khi mới 25 tuổi và là tác phẩm duy nhất
mang chữ ký của ông. Tên ông được khắc vào vệt áo băng qua ngực Đức Mẹ.
Cho đến năm 1792, du khách có thể đến gần ngắm tượng, nhưng một người
điên Hungari, quốc tịch Úc, đã leo qua rào dùng búa đập vào tượng nhiều
lần trước khi bị cản lại. Mũi Đức Mẹ bị đập vỡ. Người ta thu thập các
mảnh vỡ và ghép lại. Hiện nay, người ta đặt kính chắn đạn để bảo vệ
kiệt tác nghệ thuật này, nhưng khách viếng thăm cũng khó chiêm ngưỡng
pho tượng này hơn so với trước kia.
7. Trong số các mộ phần của các nhân vật trong đền thánh Phêrô, có 3 phụ nữ
là nữ bá tước Matilde di Canossa, hoàng hậu Cristina Thụy Điển và
Maria Clementina, hoàng hậu Anh Quốc. Hoàng hậu Cristina thoái vị sau
khi trở lại đạo Công giáo và được mời tới sống trong triều đình Giáo
hoàng và qua đời tại Roma năm 1689. Tượng trình bày cảnh bà chịu phép
rửa lần thứ hai tại Innsbruck.
III. MẶT TIỀN ĐỀN THỜ
Mặt tiền đền thờ thánh Phêrô được thực hiện trong vòng 8 năm với 700
công nhân và hoàn thành năm 1614. Để chuẩn bị đón mừng Năm Thánh 2000,
Ban Quản Đốc Đền Thờ đã cho tu bổ toàn diện mặt tiền đền thờ lần đầu
tiên kể từ khi được hoàn tất, không kể một lần thanh tẩy vào năm 1985
với kinh phí 2 triệu Mỹ kim do hội hiệp sĩ Colombo tài trợ. Lần thanh
tẩy đó có nhiều thiếu xót vì dụng cụ không thích hợp. Công trình thanh
tẩy tu bổ toàn bộ được hoàn tất cuối tháng 9 năm 1999 sau gần 2 năm rưỡi
tiến hành, từ tháng 3 năm 1997.
Trong giai đoạn đầu tiên, mấy chục chuyên viên đã sử dụng các dụng cụ
tối tân để trắc nghiệm mặt tiền đền thờ với phương pháp siêu âm, âm
hưởng điện từ và các kính hiển vi điện tử, các kỷ thuật này từ lâu vẫn
được ENI, công ty dầu hỏa Italia, dùng trong lĩnh vực dầu hỏa. Quang
tuyến X được sử dụng để xác định cơ cấu phân tử của mặt tiền đền thờ và
những ô nhiễm. Tiếp đến, họ tẩy sạch lớp đá cẩm thạch trắng đã bị hoen
ố, bụi bặm và khói xe bám vào với thời gian, bằng dụng cụ như máy xịt
cát mịn, các vòi xịt nước, hoặc các máy khoan nhỏ và máy cạo. Việc thanh
tẩy và tu bổ toàn diện là điều cần thiết vì không khí tại Roma bị ô
nhiễm cao độ. Mặt tiền đền thờ thánh Phêrô được xây bằng lớp đá cẩm
thạch có những lỗ li ti rất dễ bị tổn thương vì những lớp sương mù trộn
với khói xe cộ ở Roma. Thêm vào đó mưa axít cùng với móc meo ở trong
những lỗ nhỏ trên lớp đá tiếp tục ăn mòn các cột, các góc cạnh và 13 pho
tượng trên mặt tiền đền thờ. Vì thế, chỉ trong vòng 10 năm sau khi
thanh tẩy, mặt tiền đền thờ cũng đã bị hư hại nhiều và cần được chỉnh
trang toàn bộ và sâu rộng hơn.
Một lý do khác khiến cho các vị hữu trách quyết định tiến hành việc tu
bổ, đó là một cơ hội tốt đẹp nhân dịp Đại Năm Thánh 2000 đến gần, và
đặc biệt là có sự tài trợ của ENI, công ty dầu hỏa Italia có chi nhánh
tại 80 quốc gia. Công ty này ý thức trách nhiệm của mình vì đã sản xuất
và buôn bán dầu hỏa, nên cũng đã góp phần gây nên nạn không khí ô
nhiễm làm hư hại mặt tiền đền thờ thánh Phêrô, nên cũng cảm thấy có
trách nhiệm phải ghóp phần sửa chữa thiệt hại bằng cách dành một phần
tài nguyên kỹ thuật của mình cho công cuộc tu bổ này. Tổng số tài trợ
lên đến 9 triệu mỹ kim.
IV. QUẢNG TRƯỜNG THÁNH PHÊRÔ
Quảng
trường thánh Phêrô hình bầu dục, một chiều dài 196 mét và chiều rộng
148 mét, với diện tích khoảng 4 hécta và có hàng cột vòng cung bao
quanh như vòng tay chào đón tín hữu. Hàng cột này do kiến túc sư
Bernini kiến thiết, tổng cộng có 184 cột, mỗi bên 142 cột, đường kính
lớn nhất là 1,45 mét. Các cột được xếp thành 4 hàng, với 3 lối đi, lối
đi giữa rộng nhất. Hàng cột cao 18 mét 60, bên trên có 140 pho tượng,
cao 3 mét 24 do các môn đệ của Bernini thực hiện trong khoảng thời gian
11 năm, từ 1656 đến 1667.
Từ cây bút tháp ở giữa quảng trường tới mặt tiền đền thờ có khoảng cách
là 191 mét, trong khi khoảng cách giữa hai tượng thánh Phêrô và Phaolô
là 76 mét 73. Trên mặt tiền đền thờ, có các pho tượng cao 5 mét 65.
Các tượng này nếu nhìn gần thì thấy rất là thô kệch và sơ sài, nhưng
chúng được tạc để nhìn từ xa.
V. THÁP BÚT
Tháp
bút ở giữa quảng trường thánh Phêrô là một khối đá hình kim tự tháp
bằng đá vân cương đỏ ở Đông Phương, thoạt đầu được Caio Cornelio Gallo,
tổng trấn Ai Cập, dựng lên để tôn vinh bản thân. Về sau được Eliopoli
đưa về Roma theo ý muốn của hoàng đế Nerone, với mục đích tuyên dương
hý trường do ông khởi xướng. Tháp bị đổ và bỏ rơi trong nhiều thế kỷ,
cho tới khi được một vài vị hoàng đế để ý tới (Nicolo V (1447- 1455),
Phaolo II (1464- 1471), Phaolo III (1534- 1549). Các vị muốn cây tháp
này được đặt trước đền thờ thánh Phêrô, nhưng việc khó khăn trong việc
di chuyển và dựng tháp khiến nhiều cho nhiều kiến trúc sư nản chí, mãi
cho đến đời ĐGH Sisto V (1585- 1590), dự án đó mới thành hình.
Tháp được khởi công di chuyển ngày 30-4-1585 và được dựng tại quảng
trường ngày 10-9-1585. Công trình này đòi sự hợp lực của 900 người, với
140 con người và dùng 47 cần trục cùng với 5 đòn bẩy thật mạnh. Quy
luật được đặt trong công trình dựng tháp là các công nhân phải tuyệt
đối giữ im lặng và chỉ được nhận lệnh từ kiến trúc sư Domenico Fontana
mà thôi. Ngoài ra dân chúng hiếu kỳ không được đến gần. Đức Sisto V còn
ra lệnh phạt tử hình những người vượt quá ranh giới, và gây tiếng ồn
ào.
Theo một lưu truyền từ năm 1770, trong khi tiến hành công việc thì
những sợi dây thừng đở tháp bút bắt đầu giãn ra và có nguy cơ bị đứt.
Tình trạng thật nguy hiểm. Một trong những người thợ là ông Bresca, vốn
là một thủy thủ đã quen với dây chão, ông ta hô lớn: “Hãy đổ nước vào
các dây thừng”. Nhận thấy tình trạng nguy ngập, kiến trúc sư Domenico
Fontana, vội ra lệnh thi hành ngay lời khuyên đó và tai nạn được tránh
thoát.
Sau
khi hoàn thành công việc dựng tháp, thủy thủ Bresca ấy đã được thưởng
thay vì bị tử hình. Ông được triệu tới trước mặt ĐGH và ngài yêu cầu
ông hãy xin một ơn. Ông Bresca đã xin cho mình và dòng dõi mình được
đặc ân cung cấp lá dừa cho Tòa Thánh đễ làm lễ nghi Chúa Nhật Lễ Lá.
Lời thỉnh cầu được chấp nhận và ngày nay gia tộc Bresca ở miền Liguna
vẫn cung cấp lá dừa cho Vatican hàng năm.
Năm 1586, Đức Sisto V cho đặt trên tháp một cây thánh giá lớn bằng sắt,
trong có chứa mãnh thánh giá thật của Chúa Giêsu. Ở bệ tháp có khắc
hàng chữ: “Đây là thánh giá của Chúa. Các quyền lực đối nghịch hãy tốn
chạy. Sư tử của chi tộc Giuda đã chiến thắng”. Ngoài đó còn có câu:
“Chúa Kitô chiến thắng. Chúa Kitô hiển trị. Chúa kitô thống trị. Chúa
Kitô bảo vệ dân Ngài khỏi mọi nghịch cảnh”.
Tổng cộng từ bệ lên tới đỉnh tháp bút cao 41,23 mét và nặng 312 tấn.
Hai bên của tháp có hai bể nước (fontaine) khổng lồ giống nhau, mỗi phút
có 38.400 lít nước đổ vào. Vòi nước phun có thể lên cao 14 mét.
VI. MỘ THÁNH PHÊRÔ
Như đã nói trên đây, khu vực xây đền thờ thánh Phêrô trước kia là một
nghĩa trang thời La Mã, và được khám phá trong thập niên 1930, được
khai quật trong hai đợt: từ 1939 đến 1949, rồi từ 1953 đế 1958. Hai hàng
nhà mồ với những hốc mộ được khám phá, với rất nhiều bích họa, tranh
khảm, cùng với một khu vực với những ngôi mộ đơn sơ hơn.
Các cuộc khai quật dưới bàn thờ tuyên xưng đức tin đưa tới sự khám phá
mà Đức Phaolo VI tuyên bố ngày 26 tháng 6 nmă 1968: “Hài cốt thánh
Phêrô được nhận diện đến độ chúng tôi coi là có lý”
Từ đó đến nay, công việc này vẫn được tiếp tục và đồng thời cũng được
mở cho các du khách viếng thăm kể từ năm 1975. Nhưng trong những thập
niên gần đây, nghĩa trang dưới đền thờ thánh Phêrô đang có lỗ và bị lỡ.
Theo các chuyên gia, một vấn đề lớn là sức nóng do hệ thống đèn điện
cùng với sức nóng của cơ thể 250 du khách mỗi ngày đến viếng thăm phát
sinh ra. Sức nóng đó làm nổi sinh rêu và mốc từ tường của các ngôi mộ,
đồng thời tạo nên các lỗ nhỏ, các nấm mốc, muối và dần dần làm hư hỏng
các di tích lịch sử này. Thực tế là nhiều bức bích họa vẽ trên tường các
ngôi mộ cổ dưới đền thờ thánh Phêrô đã bị phai nhạt, cùng với các dòng
chữ viết trên tường. Một số nhà mồ trước kia mở cho du khách thăm
viếng, nay bị đóng lại,vì bị hư hỏng. Một phần nghĩa trang ở dưới mức
sông Tevere gần đó, nên sự ẩm thấp là một vấn đề liên tục, nhất là khu
vực phía đông của nghĩa trang.
Để góp phần tu bổ và cứu vãn mộ thánh Phêrô cũng như các ngôi mộ khác,
công ty điện lực của Ý, tên là ENEL, đã tình nguyện tài trợ dự án với
phí tổn khoảng 1 triệu 700 ngàn mỹ kim. Trong những năm gần đây, công
ty ENEL đã góp phần tài trợ thiết lập các hệ thống đèn điện cho các đền
đài công cộng và nhiều nhà thờ tại Italia. Những ngân khoảng đó được
rút từ số tiền lời do sự gia tăng tiêu thụ năng lượng điện ở nước này.
Dự án tu bổ mộ thánh Phêrô và cải tiến bảo trì nghĩa trang bên dưới đền
thờ kéo dài nhiều năm trời, và trong giai đoạn thứ nhất, cho tới tháng
11 năm 1999, có biện pháp giới hạn số người thăm viếng nghĩa trang
dưới hầm đền thờ thánh Phêrô. Trong Năm Thánh 2000, việc viếng thăm
đang được mở lại theo mức độ cũ, rồi sau đó, lại bị giới hạn. Hãng ENEL
dùng những kỹ thuật tân kỳ nhất để thẩm định đầy đủ tất cả những vấn đề
của nghĩa trang dưới đền thờ thánh Phêrô, thiết lập thành hồ sơ. Tiếp
đến các kỹ sư đề ra phương thức để giảm thiểu tối đa sự thay đổi nhiệt
độ trong khu vực này, và đồng thời kiến thiết một hệ thống đèn điện
mới, cùng với hệ thống an ninh.
Cho đến nay, số người viếng thăm nghĩa trang bên dưới đền thờ thánh
Phêrô tương đối ít hơn, và nhiều du khách không biết là có khu vực này.
Để viếng thăm, cần phải giữ chổ trước tại văn phòng khai quật của
Vaticano, và có người hướng dẫn từng nhóm đi thăm. Tuy số người viến
thăm ít ỏi, nhưng các chuyên viên công ty ENEL cho rằng 250 người mỗi
ngày kể là quá nhiều. Họ đề nghị rằng trong tương lai, một hệ thống bằng
máy điện toán chuyển tải các ngôi mộ trong nghĩa trang dưới đền thờ
thánh Phêrô sẽ được dùng để trình bày cho phần lớn các du khách, thay vì
để họ đích thân đi thăm các ngôi mộ như hiện nay. Vào cuối công cuộc
tu bổ, kinh nghiệm về các hoạt động này được trình bày trong hai cuốn
sách: một cuốn về mộ thánh Phêrô được tu bổ và chiếu sáng, cuốn thứ hai
về toàn bộ nghĩa trang Vaticano. Cũng nên nhắc lại rằng, trong ngày kỷ
niệm một năm lên ngôi Giáo Hoàng, 16.10.1979, chính Đức Thánh Cha Gioan
Phaolo II đã cho mở một cổng rộng 2,3 mét, cao 2,5 mét để các tín hữu
có thể bước vào mộ thánh Phêrô dưới hầm đền thờ.
VII. KẾT LUẬN
Tóm lại, kính viếng đền thờ thánh Phêrô là một cuộc gặp gỡ với 2 ngàn
năm lịch sử Giáo Hội. Qua bao nhiêu thăng trầm, các Đấng kế vị thánh
Phêrô không ngừng nâng đỡ đức tin của các anh chi em mình rải rác khắp
nơi trên thế giới, trong các Giáo Hội địa phương.
Thực vậy, chính vì thánh Phêrô đã tới Roma và mộ ngài được lưu giữ tại
đây sau khi chịu tử đạo, nên các tín hữu cũng đã tới hành hương nơi
đây, và ĐGH người kế vị thánh Phêrô cũng ở gần mộ tiền nhiệm tiên khởi
của ngài. Cả hai sự kiện có cùng một nguồn gốc. Ngoài ra, nơi xây đền
thờ không phải được lựu chọn cách tùy ý, nhưng chủ ý được xây trên mộ
của thánh nhân, và điểm hội tụ của thánh đường này chính là nơi được gọi
là “Bàn thờ Tuyên Xưng Đức Tin”, ngay trên mộ của thánh Phêrô.
Ngày 4 tháng 7 năm 1979, khi mừng lễ thánh Phêrô và Phaolô lần đầu tiên
ở Roma, ĐTC Gioan Phaolo 2 nói rằng: “tại đây, trung tâm của chính
Giáo Hội, mầu nhiệm của ơn gọi đặc biệt này đã dẫn thánh Phêrô từ hồ
Genezareth đến Roma, và cũng dẫn theo Phaolô thành Tarsa, theo vết chân
của thánh Phêrô, mầu nhiệm mạnh mẽ nói với chúng ta về thực tại lịch sử
của ngài. Tất cả chúng ta đang sống trong cơn lốc của nền văn minh
hiện đại, trong sự lo âu của đời sống tân tiến, chúng ta phải dừng lại
đâu và suy niệm về thể thức phát sinh Giáo Hội này, một Giáo Hội, theo ý
Chúa, đã trở thành trung tâm và “thủ đô” với sứ mệnh cao cả: Giáo Hội
mà tất cả Giáo Hội khác đều đến đây hành hương, tìm thấy nền tảng sự
hiệp nhất của mình… Sự kế nhiệm trên ngai tòa giám mục này có một ý
nghĩa, không những đối với Giáo Hội địa phương ở Roma này, nhưng cho cả
Giáo Hội hoàn vũ nữa. Tất cả đều có một ý nghĩa rõ ràng, thực vậy,
chính Chúa Kitô đã ban cho thánh Phêrô quyền cởi mở và đóng lại.